PGS.TS. Nguyễn Thị Loan, Khoa Môi trường, Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho biết, đã nghiên cứu xử lý nước sông Tô Lịch ô nhiễm này bằng hệ thống đất ngập nước nhân tạo với thời gian lưu trữ từ 3 - 6 ngày. Mô hình thong tac cong xử lý nước bằng phương pháp này được thiết kế gồm một hệ thống với 3 thành phần chính là bể lắng, bể ngập nước với thực vật nổi là bèo tây và bể đất ngập nước chảy phía dưới trồng sậy và cỏ lồng vực.
Các bể có kích thước khoảng 1 – 3 m chiều dài, rộng 1 m, sâu 0,8 m. Lớp lọc của bể đất ngập nước chảy gồm một lớp cát với độ dày khoảng 0,2 m, một lớp sỏi dày 0,2 m, kích thước sỏi khoảng 8 mm, nước đổ ngang mặt lọc và trồng cây lên trên đó.
Kết quả ứng dụng thực tế tại khu vực trồng rau cho thấy, thời gian lưu tối ưu trong hệ thống là 5 ngày với hiệu suất xử lý là cặn lơ lửng giảm 71,2%, COD giảm 80,32%; PO43- giảm 70,29%; NO3- giảm 54,72%, NO2- giảm 69,7%, NH4+ giảm 69,56%. Phân tích hàm lượng kim loại nặng trong nước thải sông Tô Lịch vào mùa khô cho thấy, hàm lượng các kim loại nặng không nhiều trong nước tưới, các chỉ số đều thấp hơn tiêu chuẩn cho phép.
Hàm lượng chì và asen có cao hơn không đáng kể so với tiêu chuẩn (QCVN 08:2008; B1). Khi đi qua hệ thống xử lý nước thải với thời gian lưu 5 ngày, hàm lượng các kim loại nặng đã giảm đáng kể, chì và asen đã đạt tiêu chuẩn cho phép, cụ thể: đồng giảm 85,71%; thủy ngân giảm 100%; asen giảm 78,57% và chì giảm 61,54%.
Theo PGS.TS. Nguyễn Thị Loan, nghiên cứu đã được các nhà khoa học tham gia phản biện và cho rằng có khả năng ứng dụng cao cho người trồng trọt. Theo đó, nước sau khi xử lý sẽ mang lại lợi ích cho người dân như không phải tiếp xúc với nước ô nhiễm khi sử dụng nước tưới, tránh được các bệnh ngoài da, hô hấp. Rau trồng sử dụng nước tưới đã qua xử lý không nhiễm vi khuẩn gây bệnh, trứng giun, kim loại nặng...